Liên kết website :

Số người truy cập: 172390
Đang online: 537

 



[ Đăng ngày: 06/02/2025 ]

1. Công ước quốc tế về Luật biển 1982.

Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc (thường được gọi tắt là Công ước Luật Biển năm 1982) được thông qua tại thành phố Môn-tê-gô-bay của Gia-mai-ca vào ngày 10-12-1982. Công ước đã có hiệu lực và hiện nay có 161 thành viên tham gia, trong đó có các nước ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po và Bru-nây.

Với 17 phần (Chương), 319 Điều và 9 Phụ lục (220 trang), Công ước Luật Biển năm 1982 quy định rất rõ quy chế pháp lý của từng vùng biển, trong đó quy định các quốc gia ven biển có các vùng biển là nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các vùng biển này được tính từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải của quốc gia ven biển. Sau đây là một số nội dung cần chú ý:

a. Đường cơ sở

- Đường cơ sở thông thường là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận. (Điều  5 Công ước Luật biển 1982)

- Đường cơ sở thẳng là đường nối các điểm hoặc đảo nhô ra nhất của bờ viển lục địa hoặc đảo. Đường cơ sở thẳng áp dụng khi bờ biển quốc gia ven biển bị chia cắt hoặc có chuỗi đảo gắn liền và chạy dọc theo bờ biển. (Điều 7 Công ước Luật biển 1982)

b.Nội thủy (Internal Waters) (Điều 8 của Công ước Luật Biển năm 1982): Nội thủy là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Tại nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình.

c.Lãnh hải (Territorial Sea) (Điều 3 của Công ước Luật Biển năm 1982). Lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài đường cơ sở. Chiều rộng tối đa của lãnh hải là 12 hải lý (mỗi hải lý bằng 1.852m). Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lãnh hải của mình. Chủ quyền đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải là tuyệt đối. Chủ quyền đối với vùng trời phía trên lãnh hải cũng là tuyệt đối. Tuy nhiên, chủ quyền đối với vùng nước lãnh hải không được tuyệt đối như trong nội thủy bởi vì ở lãnh hải của quốc gia ven biển, tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền qua lại không gây hại.

d.Vùng tiếp giáp lãnh hải (Contiguous Zone) Là vùng biển nằm ngoài và sát với lãnh hải. Chiều rộng của vùng tiếp giáp lãnh hải cũng không quá 12 hải lý. Quốc gia ven biển có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm ngăn ngừa việc vi phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, nhập cư hay y tế trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình. Quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành sự kiểm soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải để trừng trị việc vi phạm các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.

đ. Vùng đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone). Là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (vì lãnh hải 12 hải lý, nên thực chất vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải lý). Theo điều 56 của Công ước Luật Biển năm 1982, trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật ở đó. Quốc gia ven biển cũng có quyền chủ quyền đối với các hoạt động khác như sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió. Quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị, công trình; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Công ước Luật Biển năm 1982 quy định các quốc gia khác, bất kể là quốc gia có biển hay không có biển, được hưởng một số quyền nhất định ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển như quyền tự do hàng hải, quyền tự do hàng không.

e.Thềm lục địa (Continental Shelf). Là phần đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển. Thềm lục địa của quốc gia ven biển rộng tối thiểu 200 hải lý (kể cả khi thềm lục địa thực tế hẹp hơn 200 hải lý). Nếu thềm lục địa thực tế rộng hơn 200 hải lý thì quốc gia ven biển có thể mở rộng thềm lục địa của mình đến tối đa 350 hải lý hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500m. Điều 77 của Công ước Luật Biển năm 1982 quy định trong thềm lục địa của mình, các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của mình. Cần lưu ý là quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc gia đó không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền khai thác tại đây nếu không được sự đồng ý của quốc gia ven biển.

2. Nước ta đã xác lập cơ sở pháp lý về quyền chủ quyền trên Biển Đông theo công ước về Luật biển 1982.

2.1 Về chủ trương, đường lối chiến lược của Đảng:

- Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị (khóa VI), thánh 5/1993 khẳng định: “trở thành một nước mạnh về biển là mục tiêu chiến lược xuất phát từ yêu cầu về điều kiện khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam”.

- Chỉ thị số 20 của Bộ Chính trị, tháng 5/1997 nhấn mạnh: “Vùng biển, hải đảo và ven biển là địa bàn chiến lược có vị trí quyết định đối với sự phát triển của đất nước, là tiềm năng và thế mạnh quan trọng cho sự nghiệp CNH, HĐH”,

- Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Phải phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao thúc đẩy các vùng kinh tế khác và phải phát triển kinh tế biển kết hợp với bảo vệ vùng biển”.

- Nghị quyết TƯ 8 (khóa IX); Nghị quyết Đại hội X, Nghị quyết TƯ 4 (khóa X) của Đảng về Chiến lược biển đến năm 2020 xác định mục tiêu tổng quát: “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh”.

2.2 Chủ trương, hành động của Nhà nước.

- Ngày 12 tháng 5 năm 1977, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.

- Ngày 12 tháng 11năm 1982, Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ra Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam. Tuyên bố ngày 12/11/1982 của Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để xác định đường cơ sở, chiều rộng lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa 200 hải lý; qua đó, góp phần vào việc quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên các vùng biển này của Việt Nam. Nó cũng một lần nữa khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề biên giới lãnh thổ; trong đó, có vấn đề biên giới trên biển. Tuyên bố nói trên hoàn toàn phù hợp với những quy định pháp lý của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, phù hợp với xu thế và thực tiễn quốc tế.

- Ngày 23 tháng 6 năm 1994, Quốc hội nước ta đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển 1982. Công ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày 16/11/1994.

- Ngày 17 tháng 6 năm 2003, Quốc hội nước CHXHCNVN (Khóa XI) thông qua Luật Biên giới quốc gia. Điều 1, Chương I ghi rõ: “Biên giới quốc gia của nước CHXHCN Việt Nam  là đường mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước CHXHCN Việt Nam”.

- Ngày 18 tháng 12 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 161/2003/NĐ-CP về Quy chế khu vực biên giới biển gồm 5 chương, 37 điều.

-  Xây dựng và trình Liên hợp quốc Báo cáo quốc gia xác định ranh giới ngoài thềm lục địa Việt Nam: Theo quy định của Công ước Luật biển năm 1982, các quốc gia ven biển, trong đó có Việt Nam, có quyền mở rộng thềm lục địa của mình ra quá 200 hải lý nếu thềm lục địa thực tế rộng hơn 200 hải lý. Để thực hiện quyền này ta phải nộp Báo cáo quốc gia lên Ủy ban Thềm lục địa của Liên hợp quốc, trong đó nêu rõ các bằng chứng khoa học, địa chất, địa mạo để chứng minh. Nếu sau ngày 13/5/2009 ta không nộp Báo cáo quốc gia thì Việt Nam mất quyền mở rộng ranh giới thềm lục địa. Đầu tháng 5/2009, Việt Nam nộp Báo cáo chung với Ma-lai-xia về khu vực thềm lục địa mở rộng ở phía Nam Biển Đông và Báo cáo riêng của Việt Nam về khu vực thềm lục địa ở khu vực phía Bắc. Quan điểm pháp lý cơ bản trong Báo cáo quốc gia của Việt Nam là khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển và thềm lục địa theo quy định của Công ước Luật biển năm 1982; tuân thủ Công ước Luật biển năm1982 và tôn trọng các điều ước, hiệp định quốc tế về phân định biển đã được ký kết giữa các nước liên quan; Báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa không ảnh hưởng đến việc phân định biển giữa Việt Nam và các nước liên quan sau này.

 -  Ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc hội khóa XI thông qua Luật Biển Việt Nam: Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013.

Chương 1 gồm các quy định chung về phạm vi điều chỉnh, định nghĩa.

Chương 2 quy định về vùng biển Việt Nam với các quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, đảo, quần đảo…

Chương 3 quy định về hoạt động trong vùng biển Việt Nam, trong đó có các quy định: đi qua không gây hại trong lãnh hải, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông trong lãnh hải phục vụ cho việc đi qua không gây hại, vùng cấm và khu vực hạn chế hoạt động trong lãnh hải, tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài đến Việt Nam, trách nhiệm của tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài trong vùng biển Việt Nam, hoạt động của tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, quyền tài phán hình sự và dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài, quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài…

Chương 4 dành cho phát triển kinh tế biển, với các điều khoản về nguyên tắc phát triển kinh tế biển, các ngành kinh tế biển, quy hoạch phát triển kinh tế biển, xây dựng và phát triển kinh tế biển, khuyến khích, ưu đãi đầu tư phát triển kinh tế trên các đảo và hoạt động trên biển.

Chương 5 quy định về tuần tra, kiểm soát trên biển với các điều khoản về lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển, nhiệm vụ và phạm vi trách nhiệm tuần tra, kiểm soát trên biển, cờ, sắc phục và phù hiệu.

* Điều 1, Chương I của Luật biển Việt Nam nêu rõ: Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.

- Đàm phán phân định ranh giới các vùng biển giữa Việt Nam với các nước láng giềng: Cho đến nay nước ta đã đàm phán giải quyết phân định ranh giới biển giữa nước ta với một số nước trong khu vực có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa chồng lấn lên nhau. Đó là vùng biển chồng lấn giữa Việt Nam và Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ, vùng chồng lấn giữa Việt Nam và Căm-pu-chia, Thái Lan và Ma-lai-xia ở trong Vịnh Thái Lan và với In-đô-nê-xia ở Nam Biển Đông. Căn cứ vào các quy định liên quan của Công ước Luật biển năm 1982, Việt Nam và một số nước láng giềng đã từng bước giải quyết và phân định ranh giới vùng biển chồng lấn, cụ thể là năm 1997 ký Hiệp định phân định ranh giới trên biển với Thái Lan, năm 2000 ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ; và năm 2003 ký Hiệp định phân định thềm lục địa với In-đô-nê-xia ở phía Nam...

-  Các thoả thuận:

+ Thỏa thuận hợp tác khai thác chung thềm lục địa chồng lấn với Ma-lai-xia

+ Thoả thuận về Quy chế Tuần tra chung trên vùng biển giáp ranh và thiết lập kênh thông tin liên lạc giữa Hải quân Nhân dân Việt Nam và Hải quân Hoàng gia Thái Lan ký ngày 14/6/1999.

+Thoả thuận về Quy chế phối hợp tuần tra chung và lập kênh liên lạc giữa Hải quân Nhân dân Việt Nam và Hải quân Hoàng gia Căm-pu-chia ký ngày 14/9/2002.

+ Thoả thuận về phương án tuần tra liên hợp trên vùng biển vịnh Bắc Bộ giữa Hải quân Nhân dân Việt Nam và Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc ký ngày 26/10/2005.

+ Hiệp định về vùng nước lịch sử với Căm-pu-chia

- Thực hiện các hoạt động hành chánh, quản lý nhà nước trên các đảo và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa: Về quản lý hành chính, năm 1982, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, hiện nay, huyện Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hoà. Tháng 4-2007, Chính phủ Việt Nam quyết định thành lập thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa có đầy đủ các tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể của hệ thống chính trị và lực lượng vũ trang, các cơ sở kinh tế hoạt động bình thường. Hàng năm đại diện các Bộ, ngành Trung ương và địa phương đã ra Trường Sa thăm hỏi động viên quân và dân Trường Sa. Năm 2011 đoàn đại biểu của  54 dân tộc Việt Nam đã đến thăm, làm việc với quân và dân trên quần đảo Trường Sa, thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với chủ quyền biển đảo nước ta.

- Trước các hoạt động của các nước xâm phạm chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, Việt Nam đã kiên quyết đấu tranh cả trên thực địa và ngoại giao, qua nhiều kênh và ở nhiều cấp khác nhau để giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Việt Nam kiên quyết đấu tranh bác bỏ yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý của Trung Quốc cả trong đàm phán song phương cũng như ở các diễn đàn hội thảo khoa học và trong dư luận. Ngay sau khi Trung Quốc cho lưu hành bản đồ vẽ “đường lưỡi bò” tại Liên hợp quốc (tháng 5-2009), Việt Nam đã triển khai một loạt hoạt động đấu tranh như Phái đoàn ta tại Liên hợp quốc gửi công hàm cho Tổng Thư ký Liên hợp quốc để lưu hành cho tất cả các quốc gia thành viên, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam trả lời phỏng vấn và Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho phía Trung Quốc bác bỏ yêu sách đó, khẳng định rõ yêu sách đó hoàn toàn không có giá trị.....

3. Một số vấn đề về tranh chấp chủ quyền của Việt Nam trên biển đảo hiện nay.

3.1 Quần đảo Hoàng Sa:

Tháng 4/1956 Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng toàn bộ nhóm đảo phía Đông.

Tháng 01/1974 Trung Quốc dùng không quân và hải quân tấn công chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía Tây.

Hiện nay Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

3.2.  Quần đảo Trường Sa:

- Việt Nam thực hiện chủ quyền và đóng giữ 21 đảo đá ngầm và 33 điểm đóng  quân.

- Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình từ năm 1956, cắm mốc bãi cạn Bàn Than năm 2005.

- Philippine: Chiếm đóng 9 đảo.

- Malaixia chiếm đóng 7 đảo.

- Brunây không có đảo nào nhưng đưa yêu sách đòi chủ quyền.

- Trung Quốc đánh chiếm của Việt Nam 6 đảo, đá  năm 1988: Chữ Thập, Châu Viên, Gạch Ma, Xu Bi, Huy Gơ, Ga Ven. Tháng 1/1995 đánh chiếm của Việt Nam đảo Vành Khăn.

3.3 Việt Nam và 4 nước có tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa về cơ bản tuân thủ Công ước Luật Biển Liên Hợp quốc năm 1982 và giải quyết tranh chấp bằng giải pháp hòa  bình theo tuyên bố ứng xử DOC đã ký kết.

Trung Quốc thì thường xuyên vi phạm luật Biển Quốc tế 1982 và có hành động ngang ngược, gây ra nhiều vấn đề căng thẳng trên Biển Đông với Việt Nam và các nước trong khu vực.

CÁC TIN KHÁC

THƯ VIỆN THÀNH PHỐ TÂN UYÊN

Địa chỉ : KP 4, Phường Uyên Hưng, thành phố Tân Uyên, Bình Dương

Số điện thoại: 0274 3641.110

Email: thuvientanuyen@gmail.com. Website: http://thuvientanuyen.vn