Ngày 9/8/1945, sau khi chiến thắng hoàn toàn quân Đức, Hồng quân Liên Xô bắt đầu tiến công quân Nhật. Trong vòng không đầy một tuần lễ, quân đội Liên Xô đánh tan gần một triệu quân Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc), buộc Nhật đầu hàng Liên Xô và Đồng minh không điều kiện. Chiến tranh Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới lần thứ hai chấm dứt. Việc gần một triệu quân Quan Đông thiện chiến nhất của Nhật bị tiêu diệt đã tác động mạnh đến tinh thần quân Nhật ở Đông Dương. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim cùng với các hạng tay sai khác của Nhật đều hoang mang tan rã.
Điều kiện khách quan cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền đã hoàn toàn chín muồi, “thời cơ ngàn năm có một” đã đến, trong lúc điều kiện chủ quan của ta hết sức thuận lợi. Ngày 13/8/1945 Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập, liền ra “Quân lệnh số 1” hạ lệnh tổng khởi nghĩa.
Từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945, tại Tân Trào diễn ra Hội nghị toàn quốc của Đảng, Hội nghị nhận định: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi... Quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần, hàng ngũ chỉ huy Nhật ở Đông Dương chia rẽ đến cực điểm, bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ. Toàn dân tộc đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa giành chính quyền độc lập”. Từ nhận định đó, Hội nghị đi đến quyết định phát động toàn dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Anh, quân Tưởng Giới Thạch vào Đông Dương tước khí giới quân Nhật và thực dân Pháp chưa kịp tập hợp lực lượng, điều quân vào xâm lược nước ta lần nữa. Hội nghị còn quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại trong thời kỳ đầu sau khi giành được chính quyền.
Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc thì Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ngay ở Tân Trào (Tuyên Quang) trong hai ngày 16 và 17/8/1945. Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng, các dân tộc, các tôn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại hội tán thành hoàn toàn chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, nhất trí thông qua 10 chính sách của Việt Minh, coi đó là chính sách cơ bản của cách mạng, cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội còn quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng làm Quốc kỳ, lấy bài Tiến quân ca làm Quốc ca.
Đại hội quốc dân vừa bế mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta...chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh đồng bào hãy dũng cảm tiến lên.
Chiều 16/8/1945, theo lệnh của Ủy ban Khởi nghĩa, một đơn vị quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào, nơi Đại hội quốc dân đang họp, tiến về thị xã Thái Nguyên, mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước, ở nhiều tỉnh xa, lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương đến chậm, nhưng nhờ thấm nhuần các chỉ thị, nghị quyết của Đảng trước đó, nhất là tinh thần Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, khi được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, lãnh đạo Đảng, Mặt trận đã kịp thời, chủ động phát động quần chúng nổi dậy.
Ngày 14/8/1945, lực lượng vũ trang Quảng Ngãi giành chính quyền thắng lợi.
Từ ngày 14 đến ngày 18/8, các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái; hầu hết các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng; các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên-Huế, Khánh Hòa... lần lượt nổi dậy giành chính quyền.
Ngày 16/8/1945, một đơn vị Quân giải phóng đã tiến công thị xã Thái Nguyên và ngày 17/8, tiến công vào thị xã Tuyên Quang. Một số địa phương ở Hải Ninh, Quảng Yên, Kiến An nổi dậy.
Ngày 17/8, một số vùng ngoại ô Hà Nội đã khởi nghĩa giành thắng lợi.
Ngày 18/8, lực lượng khởi nghĩa ở Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Mỹ Tho giành chính quyền.
Tại Hà Nội: Xứ ủy Bắc Kỳ quan tâm đặc biệt tới địa bàn Hà Nội vì Hà Nội có tầm quan trọng chiến lược đối với Tổng khởi nghĩa trong cả nước, Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội (tức Ủy ban Khởi nghĩa) được thành lập ngày 15/8. Được tin Tổng hội viên chức sẽ tổ chức một cuộc mít tinh lớn vào chiều 17/8 tại Nhà hát lớn để ủng hộ Chính phủ bù nhìn, Ủy ban Khởi nghĩa quyết định biến cuộc mít tinh ấy thành cuộc mít tinh của quần chúng ủng hộ cách mạng.
Chiều 17/8, đông đảo quần chúng trong các tổ chức cứu quốc thuộc nội, ngoại thành Hà Nội, tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong được bí mật huy động đến Nhà hát thành phố. Khi cuộc mít tinh vừa khai mạc thì lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trước đám đông. Các đội viên tuyên truyền xung phong Việt Minh xông lên diễn đàn, thông báo tin Nhật đầu hàng và kêu gọi nhân dân khởi nghĩa. Cuộc mít tinh biến thành cuộc tuần hành ủng hộ Việt Minh. Quần chúng tự động xếp thành đội ngũ, có các đội viên tự vệ chiến đấu dẫn đầu, đi từ Nhà hát Lớn qua các phố trung tâm, hô vang khẩu hiệu: “ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo bù nhìn”, “Việt Nam độc lập”. Trước khí thế cách mạng của quần chúng Thủ đô dâng cao, chính quyền bù nhìn không dám chống cự, quân Nhật không dám can thiệp, Ủy ban Khởi nghĩa quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19/8/1945.
Sáng ngày 19/8, hàng chục vạn nhân dân nội, ngoại thành Hà Nội xuống đường biểu dương lực lượng. Tất cả tập trung trước Nhà hát Lớn. Đúng 11 giờ, Ủy ban Khởi nghĩa đọc lời kêu gọi khởi nghĩa. Sau đó, cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình vũ trang giành chính quyền. Quần chúng cách mạng, có sự hỗ trợ của các đội tự vệ chiến đấu, lần lượt chiếm các cơ quan đầu não của địch: Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Mật thám, Sở Cảnh sát Trung ương, Sở Bưu điện, Trại Bảo an binh...
Tối 19/8/1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội đã kết thúc hoàn toàn thắng lợi. Ngày 20/8/1945, Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời Bắc Bộ và Ủy ban Nhân dân Cách mạng Hà Nội chính thức thành lập.
Cùng với Hà Nội, nhân dân các tỉnh Thái Bình, Phúc Yên, Khánh Hòa giành chính quyền thắng lợi vào ngày 19/8. Sau đó, các cuộc khởi nghĩa nổ ra đồng loạt mang tính dây chuyền, thành công nhanh chóng tại các tỉnh trên cả nước: Thanh Hóa, Bắc Ninh, Ninh Bình, Thái Nguyên, Sơn Tây (ngày 20/8), Yên Bái, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Nam Định, Nghệ An, Ninh Thuận, Tân An (ngày 21/8); Cao Bằng, Hưng Yên, Kiến An (ngày 22/8); Hải Phòng, Hà Đông, Hòa Bình, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai, Bạc Liêu, Thừa Thiên - Huế (ngày 23/8).
Tại Huế: Nhận rõ tầm quan trọng của Huế, Trung ương Đảng cùng Đảng bộ Thừa Thiên - Huế xúc tiến mọi việc chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Ngày 20/8, Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Ủy ban quyết định giành chính quyền vào ngày 23/8. Hàng chục vạn nhân dân, bao gồm cả nông dân các huyện kéo về biểu tình thị uy chiếm các công sở. Đêm ngày 23/8, Chính phủ Cách mạng lâm thời gửi điện đòi Bảo Đại thoái vị. Chiều ngày 30/8, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại Ngọ Môn. Trước hàng vạn quần chúng, Bảo Đại đọc chiếu thoái vị, nộp ấn, kiếm cho Phái đoàn Chính phủ lâm thời. Chế độ phong kiến Việt Nam đã sụp đổ.
Ngày 24/8, khởi nghĩa tiếp tục nổ ra và giành thắng lợi ở các tỉnh Hà Nam, Quảng Yên, Đắk Lắk, Phú Yên, Gò Công. Ngày 25/8, chính quyền bù nhìn bị đánh đổ ở thị xã Lạng Sơn, Phú Thọ, Kon Tum, Bình Thuận.
Tại Sài Gòn, từ ngày 20/8 cờ đỏ sao vàng đã xuất hiện công khai, khí thế cách mạng của nhân dân sôi sục. Xứ ủy Nam Kỳ quyết định khởi Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh vào ngày 25/8.
Sáng 25/8, các đơn vị “Xung phong công đoàn”, “Thanh niên tiền phong”, công nhân, nông dân từ các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Mĩ Tho kéo về có trang bị giáo mác, gậy tầm vông tràn ngập đường phố. Quần chúng nhanh chóng làm chủ tình thế, chiếm Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, Nhà ga, Bưu diện, Nhà máy điện... và giành toàn bộ chính quyền ở Sài Gòn.
Đồng thời với khởi nghĩa ở Sài Gòn, nhân dân các tỉnh Nam Bộ như Chợ Lớn, Gia Định, Sóc Trăng, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Tây Ninh, Bến Tre, Sa Đéc đã khởi nghĩa giành thắng lợi.
Ngày 26/8, thị xã Hồng Gai, Sơn La, Châu Đốc, Biên Hòa, Cần Thơ được giải phóng.
Ngày 27/8, nhân dân Rạch Giá giành chính quyền.
Ngày 28/8, chính quyền bù nhìn bị lật đổ ở Đồng Nai Thượng, Hà Tiên.
Chỉ trong vòng 2 tuần lễ, cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân ta giành thắng lợi hoàn toàn. Chế độ thuộc địa và chế độ quân chủ từng ngự trị trên đất nước ta bị lật nhào. Tuy nhiên, một vài nơi như thị xã Vĩnh Yên, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Móng Cái, Hải Ninh do quân Tưởng và bọn phản động chống lại nên sau một thời gian dài đấu tranh gay go, phức tạp mới giành được thắng lợi.
Ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Ủy ban Dân tộc Giải phóng từ Tân Trào về đến Hà Nội.
Ngày 27/8/1945, Ủy ban Dân tộc Giải phóng triệu tập cuộc họp các thành viên trong Uỷ ban. Trong cuộc họp này, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Đại hội quốc dân Tân Trào bầu ra được cải tổ thành Chính phủ Cách mạng lâm thời, nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ.
Ngày 28/8/1945, danh sách các thành viên của Chính phủ được công bố trên các báo ở Hà Nội, gồm 15 người, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngày 2/9/1945, tại cuộc mít tinh ở Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước đông đảo nhân dân Thủ đô và các vùng lân cận tham dự, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam, với thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà độc lập, tự do ra đời!
Ngày 2/9/1945 đã trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam và được xác lập là ngày Quốc khánh của Việt Nam.
Tổng khởi nghĩa tháng Tám là đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua ba cao trào cách mạng lớn, ba cuộc tổng diễn tập cách mạng. Qua đấu tranh gian khổ, hy sinh to lớn, Đảng đã từng bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng, tổ chức, xây dựng lực lượng quần chúng cách mạng hùng hậu chung quanh mình. Đảng đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và chiến lược, chiến thuật cách mạng thích hợp và linh hoạt, luôn luôn giương cao ngọn cờ dân tộc, không ngừng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phân hóa lực lượng kẻ thù, xác định rõ kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt.
Đảng đã coi trọng cả đấu tranh chính trị lẫn đấu tranh vũ trang, kết hợp chặt chẽ, linh hoạt hai hình thức đấu tranh này. Lực lượng vũ trang được Đảng lãnh đạo tuyệt đối, được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc có chỗ đứng vững chắc là các căn cứ cách mạng.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhân dân đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân, đế quốc trong gần một thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế mấy nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên trong lịch sử nước ta và cũng là Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Châu Á, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Đảng ta từ một đảng hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành một đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam, là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước ta không những trở thành một nước độc lập, tự do mà còn trở thành một trong những nước đi tiên phong trong việc xây dựng chế độ xã hội mới chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội thực hiện hoài bão, ước mơ của biết bao thế hệ người Việt Nam xưa và nay.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi đầu tiên của cách mạng ở những nước thuộc địa, nửa thuộc địa do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Nó như một quả bom có sức công phá mạnh làm sụp đổ một mảng quan trọng trong thành trì chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, thức tỉnh các dân tộc bị áp ức bóc lột vùng dậy, báo hiệu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Đây là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Nguồn: Cách mạng tháng Tám năm 1945 - Sự kiện, hình ảnh và ký sự / Đỗ Hoàng Linh, Nguyễn Văn Dương, Vũ Thị Kim Yến sưu tầm và biên soạn. - H. : Thông tin và truyền thông, 2015. - Tr. 24 - 28.